Lịch sử Khu tự trị Tây Bắc

Tiền thân

Lai Châu năm 1920.

Năm 1890 Auguste Pavie, lúc bấy giờ là đại diện của Pháp tại Luang Prabang đề nghị với chính phủ bên chính quốc công nhận Đèo Văn Trị, một thủ lĩnh người Thái Trắng ở châu Lai làm lãnh chúa xứ Thái vùng Sip Song Chau Tai.[1] Họ Đèo được tập quyền cha truyền con nối.

Vào thập niên 1940 khi tình hình Chiến tranh Pháp-Việt ngày càng lan rộng, người Pháp quyết định tách xứ Thái ra khỏi Bắc Kỳ và chính thức thiết lập Khu tự trị Thái vào Tháng Bảy năm 1948. Nằm trong đơn vị này là các sắc dân Lô Lô, Khơ-mú, DaoH'Mông đều thuộc quyền cai quản của lãnh chúa Thái.[2] Chủ tâm của người Pháp là để tranh thủ sự ủng hộ của dân địa phương trong khi đánh dẹp Việt Minh.[3]

Khu tự trị Thái bao gồm tỉnh Lai Châu, Sơn LaPhong Thổ.[1] Thủ phủ đặt ở thị xã Lai Châu cũ, nay là thị xã Mường Lay.[4] Tiếng Tháitiếng Pháp là hai ngôn ngữ chính thức của xứ Thái.[5]

Năm 1950 dưới chính thể Quốc gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại, chiếu theo Dụ số 6 ký ngày 15 Tháng Tư thì Khu tự trị Thái được gom vào cùng với tỉnh Hải NinhXứ Thượng Nam Đông DươngCao nguyên Trung phần để thành Hoàng triều Cương thổ (tiếng Pháp: Domaine de la Couronne).[6] Theo đó thì xứ Thái có vị khâm mạng cai trị nhân danh hoàng đế Bảo Đại.[7]

Khi người Pháp thất trận tại Đông Dương khu tự trị này tan rã.

Khu tự trị Thái - Mèo

Thực hiện chính sách lập khu vực tự trị của các dân tộc ở những vùng có điều kiện theo nghị quyết của Quốc hội, ngày 29 tháng 4 năm 1955 Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 230/SL thành lập Khu tự trị Thái - Mèo.

Trước đó, theo Sắc lệnh số 143-SL ngày 28 tháng 1 năm 1953 của Chủ tịch nước, Khu Tây Bắc được thiết lập gồm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Sơn LaLai Châu, tách khỏi Liên khu Việt Bắc.

Khu tự trị Thái - Mèo phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây và phía nam giáp Lào, phía đông nam giáp vùng Mường Hoà Bình, phía đông có dãy núi Phan Xi Păng ngăn cách với các dân tộc tập trung ở lưu vực sông Hồng.